[img]
[/img]
Nhà thờ Đức Bà là ngôi nhà thờ thứ hai được Pháp lập nên bên bờ kinh Lớn (hay kinh Charner) ngay từ những ngày đầu chiếm Sài Gòn. Khu vực này hiện nay là quảng trường Công xã Paris, trung tâm TPHCM.
Nét cổ điển nghiêm trang bên cạnh nét hiện đại: một Sài Gòn mới.
Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập nên ở đường số 5 (nay là Ngô Ðức Kế Q1). Nơi đây vốn là một ngôi chùa của người Việt. Vì chiến tranh và vì quân xâm lăng đến trú đóng nên người Việt bỏ chạy, cố đạo Lefebvre đã biến ngôi chùa này thành nhà thờ. Vì nhà thờ đầu tiên này quá nhỏ nên Pháp đã lập ngôi nhà thờ thứ hai là nhà thờ Đức Bà.
Ngày 28.3.1863 cố đạo Lefebvre đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng. Nhà thờ này thoạt đầu xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865. 12 năm sau ngôi nhà thờ gỗ này bị mối mọt làm cho hư hại nặng vì vậy các buổi lễ được chuyển sang tổ chức trong phòng khánh tiết của dinh Thống Ðốc cũ, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.
[img]
[/img]
Duperré, Thống đốc Nam Kỳ, tổ chức một cuộc thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ mới. Nhiều kiến trúc sư đã đưa đồ án đến tham dự, trong đó 2 đồ án của Fabre và Bourard được đặc biệt chú ý. Cuối cùng đồ án của kỹ sư Bourard đã được chọn. Có 3 địa điểm xây cất được đề nghị: Trên nền trường thi cũ (góc đường Lê Duẩn - Hai Bà Trưng, tòa nhà Lãnh sự Pháp ngày nay), Ở khu kinh Lớn tức đường Nguyễn Huệ ngày nay, và vị trí thứ ba là ngay chỗ nhà thờ Đức Bà hiện nay.
Nhà thờ được khởi công xây dựng ngày 7.10.1877, cha cố Colombert đặt viên đá đầu tiên và khánh thành vào dịp lễ Phục sinh 11.4.1880 với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hai ngày khởi công, khánh thành và tên vị công trình sư J. Bourard được khắc trên các bảng cẩm thạch gắn trong hành lang của nhà thờ. Nhà thờ Đức Bà được xây dựng với tổng số tiền là 2,5 triệu franc lúc bấy giờ, là nhà thờ Thiên chúa giáo lớn nhất và xưa nhất ở Việt Nam, mô phỏng hình ảnh nhà thờ Ðức Bà ở Paris. Ðiều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt, thép, gạch, ngói đinh ốc, và cả 6 quả chuông đều được chở từ bên Pháp sang. Từ đó, nhà thờ có tên gọi là nhà thờ Nhà Nước.
Đặc biệt, móng của nhà thờ thiết kế có thể chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ khối kiến trúc nằm bên trên. Nhà thờ dài 93m, ngang 36,60m, cao 21m. Gạch xây được chở từ Marseille đến, kiếng màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn - Gia Ðịnh lúc ấy và đến tận bây giờ.
Hai tháp chuông nhà thờ lúc đầu chỉ là tháp vuông xây gạch cao 36,6 mét. Mười bốn năm sau, năm 1894 người ta xây thêm hai nóc trên tháp chuông. Tháp có 6 chuông nặng tổng cộng 24.000 kg, lớn nhất Viễn Đông thời đó, âm thanh phát ra là Sol, La, Si, Do, Ré, Mi. Vì kiến trúc theo kiểu mẫu Notre Dame de Paris, cho nên 2 gác chuông cũng cao ngang tầm nóc nhà thờ. Tháp chuông bên Nam được treo quả chuông lớn nhất và 3 quả chuông nhỏ hơn, lầu chuông bên Nữ (nằm bên trái, nhìn từ công viên vào) treo hai quả chuông nữa. Năm 1920 xây thêm hai tháp từ hai gác chuông trở lên, cao 36m, mỗi nóc có đính 1 cây thánh giá cao 3m50, ngang 2m, nặng 600kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60m50.
Giữa hai gác chuông còn có chiếc đồng hồ hiệu R.A với 1 bộ máy nặng trên 1.000 kg, gắn trong khung sắt, chiều ngang 2m, cao 1m, đặt nằm trên bệ gạch; mặt kim đồng hồ hướng ra đường Catina (nay là Đồng Khởi). Máy đồng hồ trông đơn giản, thô sơ nhưng chạy bền và đúng giờ, đổ chuông báo giờ rất chính xác. Ðồng hồ này chào đời từ 1877, đến nay đã được 120 tuổi.
Năm 1962, Tòa thánh Vatican đã cho phép làm lễ "xức dầu� nâng nhà thờ lên hàng Vương Cung Thánh Đường (Basilique). Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine dẫn Hoàng tử Cảnh (con của Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp "bảo hộ ", khai hóa" cho Việt Nam. Năm 1945, nền cai trị của Pháp ở Việt Nam sụp đổ, tượng này bị phá bỏ.
Là một công trình kiến trúc lớn ở quảng trường công xã Pari, trung tâm thành phố, với hai tháp chuông cao 40 mét - ngoài những danh hiệu giáo dân quen gọi là Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Nhà nước, Nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn, nhà thờ này còn có thêm một danh hiệu nữa là Nhà thờ đức Bà. Nguyên nhân: vào năm 1959, linh mục Joseph Phạm Văn Thiên, cai quản Giáo xứ Sài Gòn lúc bấy giờ, đã đặt ở Roma bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm. Tượng cao 4,80m, nặng trên 3.000kg. Khi tượng từ Roma gửi sang Sài Gòn, linh mục Joseph Thiên làm Phép Thánh cho tượng và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin đức mẹ cho Việt Nam được hòa bình".
Ngày nay, không chỉ là một nhà thờ Thiên Chúa giáo lớn nhất và xưa nhất Việt Nam, nhà thờ Đức Bà còn là một công trình kiến trúc độc đáo, xuất sắc và tiêu biểu của vùng đất Sài Gòn hơn 300 năm phát triển và xây dựng.
[img]
[/img]